Về công nghệ, việc đưa bài giảng truyền thống thành bài giảng trực tuyến, việc đưa bài tập dưới dạng trắc nghiệm online chưa đủ để gọi là “công nghệ giáo dục”. Do đó, ở chương trình Lika, học sinh vừa tự làm bài, vừa có thể tương tác với giáo viên hoặc phụ huynh để được hỏi đáp. Bên cạnh đó, Lika cung cấp thông tin với độ chính xác cao về thành tích học tập của học sinh thông qua việc cho điểm CoolPoint dựa trên các yếu tố: điểm số hiện tại, số bài tập đã làm, số bài đúng, số bài sai và mức độ khó của bài tập đó.
" alt=""/>Các chương trình học trực tuyến chất lượng ở Việt Nam đang bị “hàm oan”Như ICTnews đã thông tin, cuộc trao đổi giữa Bí thư Thành ủy TP.HCM Đinh La Thăng và Giám đốc Công viên Phần mềm Quang Trung (QTSC) ngày 28/5 về mức lương của kỹ sư CNTT tại QTSC đã thu hút được sự quan tâm của nhiều người về lương, thu nhập và mức sống hiện nay của đội ngũ nhân lực CNTT Việt Nam trong tương quan so sánh với nhân lực CNTT của các nước trong khu vực cũng như mặt bằng chung giữa các ngành nghề tại Việt Nam.
Trong cuộc trao đổi với ICTnews về vấn đề nêu trên, bà Nguyễn Thị Thu Giang, Tổng Thư ký Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam (VINASA) sẽ giúp độc giả hiểu rõ hơn về bức tranh nhân lực ngành phần mềm và dịch vụ CNTT Việt Nam hiện nay.
VINASA nhận định như thế nào về thông tin được Giám đốc QTSC chia sẻ cũng như kết quả khảo sát của tổ chức PIKOM và mạng việc làm JobStreet.com về lương của kỹ sư CNTT Việt Nam?
Tại Việt Nam, hiện có rất ít các báo cáo, khảo sát về thực trạng của ngành, số liệu trích dẫn trong nhiều năm qua chỉ dựa vào Sách trắng CNTT-TT của Bộ TT&TT. Tuy nhiên từ năm 2015, Sách trắng không được tiếp tục xuất bản nên số liệu chính thống về ngành đang là khoảng trống.
QTSC tập trung nhiều doanh nghiệp phần mềm, CNTT làm việc tại đó, vì vậy QTSC chắc đã có những khảo sát với các doanh nghiệp hoạt động trong Công viên về lương nên số liệu sẽ sát với thực tế hơn. Nói chung các tổ chức nghiên cứu đều có cách thức tiến hành, phương pháp nghiên cứu, khảo sát khác nhau, phương thức thống kê, báo cáo khác nhau, điều này cũng dẫn đến những sự khác nhau về kết quả.
Vậy qua theo dõi và nắm bắt thông tin từ các doanh nghiệp trong ngành, VINASA có thể cho biết hiện nay mức lương của nhân lực CNTT Việt Nam là bao nhiêu?
VINASA hiện có gần 350 doanh nghiệp hội viên trên toàn quốc là các doanh nghiệp hàng đầu tại Việt Nam, chiếm 70% doanh thu của toàn ngành phần mềm và khoảng 65% nhân sự trong ngành phần mềm Việt Nam. Chúng tôi có trao đổi thường xuyên với các doanh nghiệp hội viên và hàng năm đều có các chương trình hoạt động, có lấy thông tin số liệu của các doanh nghiệp trong ngành.
Liên quan đến lương và thu nhập của các kỹ sư trong ngành phần mềm, CNTT Việt Nam, tháng 10/2015, VINASA đã công bố một số số liệu về thu nhập của nhân sự trong ngành CNTT Việt Nam trên ấn phẩm 40 Doanh nghiệp CNTT hàng đầu Việt Nam 2015. Theo đó, với những nhân sự mới ra trường, mức lương của họ khoảng 250 - 280 USD. Nhân sự đã có 3 năm kinh nghiệm là 400 - 600 USD, cấp Trưởng phòng khoảng 800 - 1.000 USD và các lãnh đạo cao cấp có thu nhập 1.500 - 2.000 USD/tháng.
Còn về sự khác biệt của lương kỹ sư hai mảng phần cứng và phần mềm, theo báo cáo trong Sách trắng CNTT-TT do Bộ TT&TT công bố năm 2013, mức lương bình quân của phần cứng là 2.301 USD/năm, còn phần mềm là 5.025 USD/năm. Mức lương bình quân này có tăng lên trong 2 năm gần đây. Về cơ bản vẫn có sự chênh lệch đáng kể giữa khu vực phần cứng và phần mềm.
" alt=""/>“Lương chưa phải là tất cả để giữ chân nhân sự CNTT chất lượng cao”Hôm nay (27/5), Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã ký Quyết định 898/QĐ-TTg phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ đảm bảo ATTT mạng giai đoạn 2016 - 2020.
Theo đó, công tác đảm bảo ATTT mạng giai đoạn 2016 - 2020 sẽ được thực hiện theo hướng đổi mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về ATTT mạng của toàn xã hội. Huy động nguồn lực của xã hội, đặc biệt là của các doanh nghiệp tham gia công tác đảm bảo ATTT mạng.
Thúc đẩy phát triển thị trường sản phẩm, dịch vụ ATTT; tập trung nguồn lực bảo đảm ATTT cho các hệ thống thông tin quan trọng; triển khai công tác bảo đảm ATTT mạng theo hướng kết hợp hài hòa giữa việc đầu tư trang thiết bị và áp dụng các biện pháp quản lý theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật phù hợp.
Đồng thời, tăng cường bảo đảm ATTT mạng quốc gia; phát triển khả năng thích ứng một cách chủ động, linh hoạt và giảm thiểu các nguy cơ, đe dọa mất ATTT trên mạng (cyber resilience).
Quyết định cũng nêu rõ, bên cạnh các mục tiêu trong Quy hoạch phát triển ATTT số quốc gia đến năm 2020, mục tiêu cụ thể của giai đoạn 2016 - 2020 là: tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức về ATTT, tỷ lệ các sự cố mất ATTT mạng xảy ra do nhận thức yếu kém, chủ quan, bất cẩn của con người ở dưới mức 50%; nâng cao uy tín giao dịch điện tử của Việt Nam, đưa Việt Nam ra khỏi danh sách 20 quốc gia có tỷ lệ lây nhiễm phần mềm độc hại và phát tán thư rác cao nhất trên thế giới theo xếp hạng của của các tổ chức quốc tế; hình thành cơ bản hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và hệ thống kiểm định, đánh giá ATTT; Phát triển tối thiểu 5 sản phẩm ATTT thương hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến tại thị trường trong nước, doanh nghiệp Việt Nam đóng vai trò chủ đạo tại thị trường dịch vụ ATTT trong nước.
Để đạt được những mục tiêu trên, Thủ tướng Chính phủ cũng đưa ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp đảm bảo ATTT mạng sẽ được tập trung triển khai trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. Cụ thể, 3 nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn tới là: Đảm bảo ATTT mạng quy mô quốc gia; Bảo đảm ATTT mạng trong hoạt động của cơ quan, tổ chức; và Phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ ATTT mạng.
Trong đó, với nhiệm vụ phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ ATTT mạng, thời gian tới, bên cạnh việc thực hiện đặt hàng nghiên cứu, phát triển, sản xuất thử nghiệm và sản xuất sản phẩm ATTT nội địa từ ngân sách khoa học và công nghệ, nhà nước cũng sẽ hỗ trợ xúc tiến đầu tư, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực ATTT mạng; hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, phát triển thương hiệu, thúc đẩy việc sử dụng các sản phẩm, giải pháp ATTT mạng thương hiệu Việt Nam; hỗ trợ phát triển một số sản phẩm, dịch vụ ATTT nội địa; đồng thời thúc đẩy ứng dụng chữ ký số công cộng trong các hoạt động kinh tế - xã hội, tăng cường thuê ngoài dịch vụ đảm bảo ATTT mạng do doanh nghiệp cung cấp.
" alt=""/>Tối thiểu 5 sản phẩm ATTT thương hiệu Việt được dùng phổ biến vào năm 2020